Văn hóa Nhà_Đường

Tư tưởng học thuật

Tranh họa Hàn Dũ - cùng với Liễu Tông Nguyên là 2 nhà thơ văn nổi tiếng chủ trương phục cổ

Đầu thời nhà Đường, tư tưởng học thuật kế thừa theo Nho giáo từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, tiêu biểu như Khổng Dĩnh Đạt (孔颖达) với tác phẩm "Ngũ Kinh chính nghĩa" (五經正義), trong đó là tác phẩm nối tiếp và hoàn thành tư tưởng Nho học từ đời Hán và Tấn, mà người có công lao nhất là Đặng Huyền (郑玄). Từ thời Đường và cả thời Minh Sơ sau này đều chấp hành theo những tư tưởng triết thuật thời trước. Đến trung kì thời Đường, những tư tưởng cải tiến trọng đại đã phát sinh, những người có sáng kiến, kế thừa đời trước và truỳen lại cho đời sau như Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Lý Cao (李翱), Lưu Vũ Tích (刘禹锡). Rồi lại có Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị là những người có giá trị tư tưởng đồng dạng, họ không chỉ là các thi nhân. Đời sau khi bàn luận về kinh học, những ý nghĩa nghiêm cách nổi bật đều sưu tập trong "Hán Tấn Đường kinh học". Khi nói về lý học thì đời sau xem "Đường Tống Minh lý học" là hơn.

Hàn Dũ và Lý Cao có để lại tác phẩm nổi tiếng thể hiện tư tưởng chủ nghĩa duy tâm, còn Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích là đại biểu của tư tưởng chủ nghĩa duy vật. Hàn Dũ có tác phẩm "Nguyên Đạo" và "Nguyên Tính" chủ trương phục cổ sùng Nho, bài xích Phật giáo, cho rằng tăng đạo không quan tâm đến sinh sản, lãng phí tiền của xã hội, tăng ni đạo sĩ nên về quê hoàn tục, nên đốt trụi kinh văn của Phật gia, lấy các chùa miếu đạo quán làm nơi sinh sống cho dân cư. Họ chủ trương tôn sùng Khổng Tử, lấy "Luận Ngữ" làm tác phẩm thể hiện quan niệm đạo đức trong đạo thuật. Họ lại cho rằng trời sinh ra nhân tính, có phân ra 3 phẩm thượng, trung và hạ. Lý Cao trong "Phục tính thư" (复性书), phát triển tính thiện luận của Mạnh Tử, cho rằng bản tính con người vốn thiện, nhưng vì trong đời sống sinh hoạt gặp phải những hoàn cảnh tình cảm vui, buồn, giận, sướng quấy rối tâm hồn, khiến họ không thể phát huy tính thiện, nên cần phải khôi phục đức thiện và khắc chế tình cảm ham muốn, kêu gọi "phục tính". Hàn Dũ và Lý Cao đều để lại danh tiếng về suy nghiệm lý học cho thuật học đời nhà Tống về sau.

Liễu Tông Nguyên trong các tác phẩm "Thiên thuyết" (天說), "Thiên đối" (天對), và "Phong kiến luận" (封建論), triết lý văn chương văn chương trong đó cho mệnh người và mệnh trời không có quan hệ, trời tức là nguyên khí của tự nhiên, không hề có chuyện thưởng phạt cho nhân thế, "Công là ở công, họa là ở họa" (功者自功,祸者自祸 - Công giả tự công, Họa giả tự họa), mọi chuyện đều chỉ do con người tạo ra. Lưu Vũ Tích thì phát triển những nhận định bàn luận về tự nhiên của Tuân Tử cho rằng vũ trụ là được tạo bởi vật chất, bản thân trời cũng cùng dạng với vật chất, tuy có tồn tại theo quy luật khách quan, nhưng không ảnh hưởng gì đến nhân sự.[chú thích 15] Họ cho rằng chủ nghĩa duy tâm lý luận là thị phi điên đảo của thế gian, con người không có khả năng, do đó tuyên dương cái được gọi là "thiên mệnh".[14]

Văn học và sử học

Tranh vẽ thi tiên Lý Bạch

Văn học thời Đường với thể loại thơ ca cực kỳ phát triển. Người thời Thanh biên soạn"Toàn Đường thư" (全唐詩) thu thập ghi chép nhiều đến trên 2200 nhà thơ sáng tác đến khoảng 48.900 bài thơ, song đó chưa phải là đã đầy dủ. Đầu thời Đường đã có "Sơ Đường tứ kiệt" tức là 4 vị thi nhân kiệt xuất: Vương Bột, Dương Quýnh (楊炯), Lư Chiếu Lân (盧照鄰) và Lạc Tân Vương (骆宾王).[38]:712 Đến thời Thịnh Đường thì lại có các thi nhân thuộc phái điền viên như Vương Duy (王维), Mạnh Hạo Nhiên; phái biên tái như Sầm Tham (岑参), Vương Xương Linh. Và đặc biệt thành công nhất là "thi tiên" Lý Bạch và "thi thánh" Đỗ Phủ,[38]:715 danh tiếng đến tận ngày nay. Thơ của Lý Bạch nhẹ nhàng bồng bềnh tự nhiên không bó buộc, lại có sắc thái chủ nghĩa lãng mạn đầy sung mãn. Mà thơ của Đỗ Phủ thì thể hiện tậm trạng về chủ nghĩa hiện thực. Thời kỳ Trung Đường, nổi tiếng nhất có thể kể đến Bạch Cư Dị, khác ở chỗ thơ của ông dễ hiểu. Ngoài ra cũng có những nhà thơ khác như Hàn Dũ, Nguyên Chẩn, Liễu Tông Nguyên, Lưu Vũ Tích, Lý Hạ.[38]:724 Thời Vãn Đường thì có hai thi nhân Lý Thương ẨnĐỗ Mục là xuất chúng, được gọi là "tiểu Lý Đỗ".[38]:730 Sau này các đời nhà Tống, Minh, Thanh tuy cũng xuất hiện những nhà thơ kiệt xuất, nhưng về tổng thể khó sánh bằng thi nhân thời Đường. Thơ văn nhà Đường đã đạt đến đỉnh cao tột cùng mà sau này không thời nào vượt tới được.

Trên phương diện tản văn, từ thời Lục triều đến đương thời, văn đàn rất thịnh hành lối hình thức biền văn, văn biền ngẫu giảng cứu về thanh vận, đối ngữ, điển cố, từ ngữ đẹp đẽ hoa lệ, với câu bốn chữ và sáu chữ chiếm chủ yếu.[8]:293 Thời Đường Sơ tản văn rất phổ biến, với các tác phẩm của "Sơ Đường tứ kiệt" (Vương, Dương, Lư và Lạc), nhưng chủng văn kiểu đó vào thời nhà Đường lại có hình thức cương hóa, nội dung trống rỗng, cho nên đến những năm Thiên Bảo thời Đường Huyền Tông, chủ trương phục cổ văn lại hưng khởi.[38]:727 Vận động cổ văn trên danh nghĩa là chủ trương phục hồi lại tản văn thời Tiên Tần và Lưỡng Hán, còn thực tế thì muốn văn chương có nhiều nội dung hơn, nội dung chủ trương là "Văn dĩ tải đạo" (文以載道, dùng văn chương truyền tải đạo lý). Hàn Dũ là người đầu tiên trong Đường Tống bát đại gia chủ trương tả được cái khí thế mênh mông của tản văn và lại có những tư tưởng rất thâm sâu. Sau khi Hàn Dũ mất, vận động cổ văn dần dà suy thoái, song đến thời Đường mạt thì biền văn lại hưng khởi.[38]:736

Tranh vẽ thi thánh Đỗ Phủ

Thể loại truyền kì của Trung Quốc thuộc hình thức tiểu thuyết cổ điển, xuất hiện từ đời nhà Tùy, hưng thịnh ở thời Đường.[38]:746 Các tác phẩm truyền kì bao quát như: "Liễu nghị truyện" (柳毅傳), "Oanh oanh truyện" (鶯鶯傳), "Nam Kha thái thú truyện" (南柯太守傳), "Chẩm trung ký" (枕中記), "Trường hận truyện" (長恨傳). Các loại truyền kì về sau đều cải biên thành hí kịch và tiểu thuyết Bạch thoại. Thể loại biện văn cũng có địa vị trọng yếu trong văn học sử nhà Đường. Biện văn xuất phát từ khi tăng lữ Phật giáo tuyên truyền kinh đạo Phật pháp. Biện văn đã được dùng trong lúc xướng giảng kinh văn Phật của các tăng lữ và dần dần có xu hướng nhập sâu vào văn học. Biện văn càng lưu truyền vào càng về sau càng rất có ảnh hưởng.[38]:749

Sử học thời Đường bắt đầu khai sáng làn gió tu sửa các chính sử.[8]:292 Những năm Trinh Quán thời Đường Thái Tông, các sử quán đã phụng chiếu cho tu sửa 6 bộ chính sử như "Tấn thư", "Lương thư", "Trần thư", "Bắc Tề thư", "Chu thư" và "Tùy thư". Lại có sử gia Lý Diên Thọ biên soạn ra "Nam sử" và "Bắc sử". Trong chính Nhị thập tứ sử của Trung Hoa đã có tới 8 bộ sử được hoàn thiện từ đời Đường. Sử chép thời Đường thành thư sách rất sắc bén, chép tỏ tường các nguồn, nội dung phong phú, nhưng vì các nhà thống trị trực tiếp quản lý khống chế việc tu sửa sử sách nên vì nhu cầu chính trị thiên vị nhà Đường nên việc chép sử có phần hạ thấp đời trước và khoe khoang quá đáng về chính trị Đường triều. Ngoài ra, có Đỗ Hựu tả rõ về "Chính điển" (政典) trong chính thư "Thông điển" (通典), có Lưu Tri Kỉ[chú thích 16]。}} chế soạn ra "Sử thông" (史通). Đỗ Hựu chuyên ghi chép về tài chính, kinh tế, và điển chương, pháp lệnh, chế độ với những nhận thức rất hiện thực về chính trị, lựa chọn nhiều nguồn tài liệu. Lưu Tri Kỉ có hơi chút cường điệu trong văn phong viết sử, trong quá trình viết có tự mình ó sáng kiến mới và bình luận kiến giải, là người khởi xướng cho lý luận học lịch sử Trung Quốc.[38]:749

Tôn giáo

Tôn giáo từ trước đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến xã hội Trung Quốc, thời Đường đã lên mức độ cực đại. Thịnh Đường là thời kỳ Tam đại giáo là Khổng giáo, Phật giáo, và Đạo giáo tiếp tục phát triển đến đỉnh cao. Tư tưởng của 3 trường phái này phát huy giúp con người điều chỉnh lại tư tưởng và hành vi của mình, thẩm thấu trong các lĩnh vực xã hội. Xã hội thời Thịnh Đường được duy trì những chuẩn mực đạo đức cao. Đường triều vì thế trở nên huy hoàng.

Đường Thái Tông không chỉ tôn sùng Nho học, mà còn là người phù trì Phật giáo, bảo hộ Đạo giáo, xây dựng cả một hệ thống hoàn thiện điện tế trời đất, tông miếu thờ thần linh, chùa chiền tượng phật. Người dân kính Trời và tin Thần, tôn sùng đạo đức, đọc sách thánh hiền, có trách nhiệm cao đối với sự hưng thịnh của xã tắc. Nho gia giảng: "Nhân giả ái nhân"- (Người yêu thương người), Đạo gia giảng: "Ngộ đạo chứng chân"-(Giác ngộ Đạo và chứng được Chân Lý), Phật gia giảng: "Từ bi phổ độ chúng sinh" (Từ bi cứu độ muôn loài). Các tín ngưỡng chính thống giúp cho con người mở rộng nhãn quan, duy trì phẩm chất mộc mạc, thiện lương, thuần chính, tìm cầu chân lý, kiên định hành thiện.

Ở thời Đường, Phật giáo có chủ yếu những tông phái sau: Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Pháp Tướng tông (法相宗), Tịnh độ tôngThiền tông. Phật giáo thời Đường rất phát triển, có chuyển biến hướng về dân gian. Thiên Thai tông có phụng túng Diệu Pháp Liên Hoa kinh (妙法莲华经), cũng xưng là Pháp Hoa tông. Hoa Nghiêm tông phụng túng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh, thường thích tham dự vào việc chính trị. Tịnh Thổ tông thì có những khuôn tắc sửa đổi khi nhập môn. Thiền tông có phân ra Nam Thiền và Bắc Thiền. Bắc Thiền là của Ngọc Tuyền Đại Thông Thần Tú pháp sư, chủ trương thiền định mà dần dần ngộ đạo. Nam Thiền là của pháp sư Huệ Năng (惠能). Đến thời Đường Vũ Tông thì lại có chủ trương hủy diệt đàn áp đạo Phật, sử gọi là Hội Xương diệt Pháp (會昌滅法), khiến cho Phật giáo Nam Thiền suýt bị tiêu vong, mà các tông phái thiểu số của đạo Phật cũng một phen chấn động.

Phật giáo tuy địa vị chính trị không bằng Đạo giáo, nhưng phạm vi truyền bá rất rộng, có thực lực kinh tế lớn, có nhiều tín đồ và tăng ni hơn cả Đạo giáo nhiều.[38]:654 Tư tưởng Phật giáo cũng được truyền bá sâu rộng, phát dương quang đại. Một lượng lớn kinh thư Phật giáo được biên dịch và lưu truyền trong thời kỳ này.

Còn Đạo giáo hay còn gọi là đạo Lão, tôn thờ Lão Tử (gọi ông là Thái Thượng Lão Quân), mà hoàng tộc nhà Đường mang họ Lý, trong khi đó Lão Tử cũng mang họ Lý, nên thuyết đồn rằng Lão Tử là tổ nhà Đường, thành ra Đạo giáo rất được coi trọng đặc biệt là trong giới thượng lưu, cùng với Phật giáo trở thành tôn giáo lớn ở Trung Hoa. Có truyền thuyết kể rằng Đường Cao Tổ đến núi Chung Nam xây Thái Hòa điện, trông thấy Lão Tử tự xưng là tổ nhà Đường, bèn truy phong cho Lão Tử làm Thái Thượng Huyền Nguyên hoàng đế (太上玄元皇帝), bắt tất cả các vương công và trăm quan phải nghiên cứu về Lão Tử và Đạo đức kinh, về sau Võ Tắc Thiên lại bắt hoàng tộc và quan lại học cuốn "Lão Tử", cùng với cuốn "Hiếu Kinh" và "Luận Ngữ" làm sách để thi cử khảo hạch kẻ sĩ. Đời Đường Huyền Tông cho đến Đường Đại Tông lại cực lực đề xướng Đạo giáo, khiến đạo này trở nên thịnh phát. Huyền Tông tự mình chú giải "Đạo đức kinh", năm 733, lại lập ra kì thi khoa cử kinh điển dành cho Đạo gia cùng với thi cử của Nho gia, cùng cho các cử nhân thi giáo điển của sách "Minh Kinh" (明經), nâng cấp Đạo học ngang tầm với Nho học về bắt các thí sinh đều phải thông hiểu kinh nghĩa của hai đạo học này. Theo "Tân Đường thư" phần Bách quan chí ghi lại, những năm Khai Nguyên thời Huyền Tông toàn quốc có 1687 cung quán Đạo giáo, trong đó nữ quán có đến 550 nơi, đương thời chủ yếu Đạo giáo có 2 tông phái là: Thanh Kinh Pháp phái (清经法派) và Chính Nhất phái (正一派), có các nhân vật nổi tiếng như: Vương Viễn Tri (王远知), Phan Sư Chính (潘师正), Tư Mã Thừa Trinh (司马承祯), Ngô Quân (吴筠) và Trương Quả (张果). Lý do Đạo giáo được hoàng thất dành cho thiện cảm có nguyên nhân chủ yếu là họ nhiều lần luyện đan để cho hoàng đế được trường sinh bất lão, song trong thành phần của chúng có khả năng có độc nên có nhiều hoàng đế nhà Đường dùng đan trường sinh bất lão đó mà thiệt mạng, như Thái Tông và Tuyên Tông.[38]:706

Cùng với Phật giáo, còn có Hồi giáo, Cảnh giáo,[chú thích 17] Bái Hỏa giáoMani giáo là những tôn giáo được truyền bá vào từ bên ngoài. Nhưng ảnh hưởng đến xã hội còn nhỏ. Nhà Đường đối với các tôn giáo ngoại lai rất khoan dung nên có nhiều giáo sĩ nước ngoài đã đến truyền thụ đạo pháp và trong đó nhiều nhất là Hồi giáo và Cảnh giáo. Hồi giáo là quốc giáo của nước Đại Thực (Ả Rập), nên cũng gọi là "Đại Thực pháp giáo". Năm 650, đấng tiên tri Muhammad và người cữu phụ là Sa Đức (沙德) đã 2 lần cử sứ giả đến tiếp kiến Đường Cao Tông xin được cho phép truyền bá Hồi giáo, lập một nhà thờ Hồi giáo đầu tiên là chùa Hoài Thánh (怀圣寺) ở tại Quảng Châu. Về những thế kỷ sau, Hồi giáo theo bước của những thương nhân Tây Vực men theo Con đường tơ lụa bằng đường thủy và đường bộ mà đến Trung Quốc khiến tôn giáo này phát triển mạnh mẽ. Cảnh giáo cũng thông qua con đường tơ lụa của các thương nhân Tây Vực mà truyền vào Trung Hoa khi nhà Đường có quan hệ giao thương với nước Đại Tần (tức là Đế quốc Đông La Mã), nên cũng gọi là "Đại Tần Cảnh giáo". Năm 635 nhà Đường đã tiếp nhận đạo này và cho xây dựng thánh đường chùa Đại Tần ở Trường An, lại cho dựng bia đá.[39]:154 Nhưng đến năm Hội Xương thứ 5 (845) đời Đường Vũ Tông do nạn diệt Phật, Cảnh giáo cũng đồng thời bị cấm, cho nên về sau gần như tuyệt tích tại Trung Quốc.

Mani giáo được sáng lập từ khoảng năm 242 do một người tên là Mani sống dưới thời vua Shapur I của đế quốc Ba Tư. Sau loạn An Sử, thế lực Hồi Hột mạnh lên, Mani giáo cũng được Hồi Hột che chở truyền giáo tại Trung Hoa, về sau do ảnh hưởng của nạn diệt Phật thời Vũ Tông, Mani giáo cũng bị đả kích và suy yếu trầm trọng nhưng vẫn chưa tuyệt hẳn, các tín đồ dần dần rời khỏi nơi khống chế của chính quyền đến phía nam để kết hợp tôn giáo lại, và chạy đến vùng Phúc Kiến nay để bắt đầu lập địa điểm truyền giáo, lưu truyền đến duyên hải đông nam Chiết Giang, đất Mân, và dần dần chuyển thành tôn giáo bí mật trong dân gian. Mani giáo cũng ảnh hưởng đến các giáo phái về sau này như Minh giáo, Di Lặc giáo, Bạch Liên giáo.[40]

Giáo dục và tuyển quan lại

Nghệ thuật

Do hấp thu được những đặc trưng văn hóa của Tây Vực và sắc thái tôn giáo nên nghệ thuật thời Đường không giống với các Triều đại trước và sau đó.[38]:758 Thời Đường Sơ đã có 2 họa sĩ rất nổi danh là Diêm Lập Bản (閻立本) và Diêm Lập Đức (閻立德). Ngô Đạo Tử có tên gọi là "họa thánh" (thánh vẽ), ông là một họa sư chuyên về vẽ nhân vật, sơn thủy, hấp thụ các kỹ thuật và phương pháp của các phái họa của Tây Vực. Ông có một chủ trương riêng là "Ngô đái đương phong" (吳帶當風). Trương Huyên (张萱) và Chu Phưởng (周昉) chủ yếu vẽ tranh về nữ giới, họ có những tác phẩm họa như "Đảo luyện đồ" (搗練圖), "Quắc Quốc phu nhân du xuân đồ" (虢國夫人游春圖, Quắc Quốc phu nhân là chị họ của Dương Quý Phi), "Trâm hoa sĩ nữ đồ" (簪花仕女圖), phát triển xa hơn trong việc vẽ nhân vật. Thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, sơn thủy phong cảnh chủ yếu phối cảnh cho chủ đề nhân vật, nhưng đến thời Tùy Đường, tranh sơn thủy phong cảnh đã trở thành chủ đề. Đương thời khi các phái nhà thơ phân chia ra Bắc phái và Nam phái, nhà thơ Vương Duy rất giỏi về vẽ tranh thủy mặc cảnh non nước, là đại diện tiêu biểu của Nam phái, Tô Thức đời nhà Tống cũng bình luận về tác phẩm của ông rằng: "Trong thơ có họa, trong họa có thơ" (诗中有画,畫中有詩 - Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi). Một họa gia Bắc phái là Lý Tư Huấn (李思訓) rất giỏi trong việc dùng sắc xanh đậm để vẽ cảnh sơn thủy nhiều màu sắc. Lại có Tào Bá (曹霸), Hàn Cán giỏi vẽ ngựa, Hàn Hoảng (韓滉) giỏi vẽ trâu, Tiết Tắc (薛稷) giỏi vẽ chim hạc, Biên Loan (边鸾) rất giỏi vẽ chim công.

Sự nghiệp bích họa thời Đường rất đặc biệt phát triển. Các bích họa trong mộ thất ở hang Mạc Cao là những tác phẩm tinh tế để lại cho người đời. Thời Đường, nghệ thuật điêu khắc đồng dạng xuất chúng. Các hang đá Đôn Hoàng, Long Môn, Mạch Tích SơnBỉnh Linh tự (炳靈寺) là những nơi khắc thể hiện sự phát triển thịnh vượng của nghệ thuật điêu khắc trong thời kỳ này.[38]:761 Hang đá Long Môn với Lô Xá Na Đại PhậtLạc Sơn Đại Phật ở Tứ Xuyên được nhiều người ca ngợi. Sáu con chiến mã ở Chiêu Lăng (lăng mộ của Đường Thái Tông), bức tượng gốm ba màu trong một táng tính tế và đẹp đến phi thường. Nói về điêu khắc có Dương Huệ Chi (楊惠之) được xưng là "tố thánh" (thánh nặn). Thời nhà Đường, những bậc về thư pháp rất tài giỏi. Âu Dương Tuân (歐陽詢), Lư Thế Nam (虞世南) là những thư pháp gia trứ danh thời Sơ Đường. Các loại thư pháp của Âu Dương Tuân ngòi bút rất nghiêm chỉnh, nhất là tác phẩm "Cửu Thành cung lễ tuyền minh" (九成宮醴泉銘, Bài minh về suối rượu cung Cửu Thành). Thư pháp của Lư Thế Nam nét chữ uyển chuyển mềm mại, tác phẩm tiêu biểu như "Khổng Tử miếu đường bi" (孔子廟堂碑), "Nhữ Nam công chúa mộ chí" (汝南公主墓誌) và "Mô Lan đình tự" (摹蘭亭序). Nhan Chân KhanhLiễu Công Quyền (柳公權) là hai nhà thư pháp của thời trung hậu kì nhà Đường. Thư pháp của Nhan Chân Khanh đầy đặn, trong chứa gân cốt, cứng kiện mà không bó buộc, tiêu biểu có "Đa bảo tháp bi" (多寶塔碑), "Nghiêm Thị gia bảo miếu bi" (颜氏家寶庙碑) và "Ma Cô tiên đàn ký" (麻姑仙坛记). Nét chữ của Liễu Công Quyền cứng cáp, tiêu biểu có "Huyền bí tháp bi" (玄秘塔碑), người đời gọi hai người này là "Nhan cân Liễu cốt" (顏筋柳骨). Trương HúcHoài Tố rất giỏi về thảo thư, phóng thoáng mà làm rung động, có sự thâm sâu, rất có phong cách và tính nghệ thuật.[38]:755

Các loại âm nhạc ca múa thời Đường cũng rất phát triển. Đường Thái Tông khi dẹp Cao Xương có lấy được nhạc nơi đó, nhập với nhạc ở Trung Nguyên thành 10 bộ nhạc: Yên nhạc (燕樂), Thanh Thương nhạc (清商樂), Tây Lương nhạc (西涼樂), Thiên Trúc nhạc (天竺樂), Cao Ly nhạc (高麗樂), Quy Từ nhạc (龟兹乐), An Quốc nhạc (安國樂), Sơ Lặc nhạc (疏勒乐), Khang Quốc nhạc (康國樂), và Cao Xương nhạc (高昌樂).[41] Sau đến thời Đường Cao Tông, 10 bộ nhạc đã bắt đầu suy lạc, các âm nhạc gia lại nghiên cứu về những loại nhạc vũ mới, còn những loại nhạc này dần dần mất đi về đến thời Đường Huyền Tông thì triệt tiêu hẳn. Đường Huyền Tông bản thân cũng là một âm nhạc gia, nên cũng tự thân diễn tấu được đàn tì bà, trống yết cổ và nhiều loại nhạc cụ và giỏi trong việc sáng tác, như có "Nghê thường vũ y khúc" (霓裳羽衣曲, Khúc múa váy xiêm có màu sắc cầu vồng), "Tiểu phá trận nhạc" (小破陣樂) và hơn hàng trăm nhạc khúc. Họ vô cùng coi trọng nhã nhạc, 10 bộ nhạc được phân thành Tọa bộ kĩ (坐部伎, ngồi tại trên tòa đường diễn tấu) và Lập bộ kĩ (立部伎, đứng trên tòa đường diễn tấu).[42] Hoàng đế đã từng đích thân tuyển 300 người tọa bộ kĩ, hiệu là "Hoàng đế lê viên đệ tử" (Đường Huyền Tông có tài âm nhạc, chọn ba trăm con em nhà nghề vào dạy ở trong vườn lê, vì thế ngày nay gọi rạp hát tuồng là lê viên), Lý Quy Niên (李龜年) và Vĩnh Tân nương tử (永新娘子) là hai người ca hát có tiếng vang một thời. Về vũ đạo (điệu múa) thì nhà Đường có 2 điệu cực kỳ có tiếng là kiện vũ (múa khỏe) và nhuyễn vũ (múa dẻo). Kiện vũ là dùng những tiết tấu sảng khoái, hào hùng mà nên hay, có tác phẩm "A liêu" (阿辽), múa "Chá chi" (柘枝, một điệu múa mà thân mình giống như là không có xương, người xem đều lấy làm kinh dị), "Phất lâm" (拂林), "Đại Vị Châu" (大渭州), "Hoàng chương" (黄獐, con hưu vàng), "A liên" (阿连), "Kiếm khí" (剑器), "Hồ toàn" (胡旋), "Hồ đằng" (胡腾), "Dương liễu chi" (杨柳枝)...nhiều loại. Nhuyễn vũ cũng gọi là văn vũ, nhu mềm uyển chuyển đẹp, tiết tấu thong thả, có các tác khúc "Thùy thủ la" (垂手罗), "Hồi ba nhạc" (回波乐), "Lan lăng vương" (兰陵王), "Xuân oanh chuyển" (春莺啭), "Tá tịch" (借席), "Ô dạ đề" (乌夜啼), "Lương Châu" (凉州), "Lục yêu" (绿腰), "Khuất chá chi" (屈柘枝), "Cam Châu" (甘州). Các loại điệu múa có tiếng như "Thất đức vũ" (七德舞), "Thượng nguyên vũ" (上元舞), "Cửu công vũ" (九功舞), lưu hành trong cung đình. Những người múa rất hay như Dương Quý Phi, Công Tôn Đại Nương (公孫大娘), Tạ A Man (谢阿蛮).[14] Thời nhà Tấn sau loạn Bát Vương, các loại nhạc múa của Tây Vực đã truyền vào Trung Hoa, dung hợp với ca múa Hoa Hạ tạo thành những điệu nhạc hay, truyền nối nhiều thế kỉ, đến thời Đường lại càng có nhiều loại đặc sắc.